CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI DIỄN ĐÀN CỦA LỚP VB211B, HÃY ĐĂNG KÝ ĐỂ THAM GIA DIỄN ĐÀN (NẾU CHƯA LÀ THÀNH VIÊN)

VÀ ĐĂNG NHẬP ( NẾU ĐÃ LÀ THÀNH VIÊN) ĐỂ LẤY VÀ CHIA SẺ THÔNG TIN VỀ LỚP. MONG MỌI NGƯỜI THAM GIA ĐÔNG ĐỦ....

CHÚC VUI!

Join the forum, it's quick and easy

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI DIỄN ĐÀN CỦA LỚP VB211B, HÃY ĐĂNG KÝ ĐỂ THAM GIA DIỄN ĐÀN (NẾU CHƯA LÀ THÀNH VIÊN)

VÀ ĐĂNG NHẬP ( NẾU ĐÃ LÀ THÀNH VIÊN) ĐỂ LẤY VÀ CHIA SẺ THÔNG TIN VỀ LỚP. MONG MỌI NGƯỜI THAM GIA ĐÔNG ĐỦ....

CHÚC VUI!
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp!

Go down

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Empty Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp!

Bài gửi  Admin Thu May 10, 2012 3:03 pm

Hoạt động tái cấu trúc DN thông qua xử lý nợ còn khá mới mẻ ở Việt Nam và được Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) triển khai thực hiện từ năm 2006 đến nay. Ông Phạm Thanh Quang, Tổng Giám đốc DATC cho rằng, việc hình thành một thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp cũng như hoàn thiện hành lang pháp lý đối với hoạt động này đang trở nên rất cấp bách, nhất là trong bối cảnh tình hình nợ xấu đang đè nặng lên nền kinh tế.

Với kinh nghiệm của người đi mua nợ xấu nhiều năm, ông đánh giá như thế nào về tình hình nợ xấu của các DNNN?

Mặc dù không có số liệu thống kê cụ thể nhưng qua thực tiễn hoạt động xử lý nợ gắn với tái cấu trúc DN của DATC thì số tổng công ty, DNNN có nợ xấu chiếm số lượng không nhỏ như: các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ Giao thông vận tải, các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ Xây dựng, một số tổng công ty thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các đơn vị thành viên thuộc Vinashin...
Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120510101029anh-Quang
Ông Phạm Thanh Quang - Tổng Giám đốc DATC

Nợ xấu của khối DN chủ yếu nằm ở các ngân hàng, tại sao các ngân hàng không sử dụng hình thức kiện ra Tòa để đòi nợ hoặc phát mãi tài sản thế chấp, thưa ông?

Đó cũng là một cách. Nhưng nếu đưa ra Tòa án yêu cầu phá sản DN để thu nợ thì thời gian xử lý lâu (phải từ 3 - 4 năm), tỷ lệ thu hồi nợ thấp do xử lý tài sản của DN dưới hình thức bán thanh lý. Đồng thời, trong bối cảnh hiện nay, việc phát mãi tài sản thế chấp cũng rất khó khăn bởi đầu ra kém thanh khoản. Trong khi hầu hết DN nợ đọng đều làm ăn bết bát, khoản tài sản thế chấp mất giá nghiêm trọng.
Thực tế quá trình tái cấu trúc DN thông qua xử lý nợ của DATC đã cho thấy đây là phương thức tiếp cận hiệu quả đối với các DNNN không đủ điều kiện chuyển đổi, hoặc DN đã cổ phần hóa nhưng xử lý các tồn tại về tài chính không triệt để.

Theo ông, việc chuyển nợ về một đầu mối như DATC quản lý có phải là giải pháp tối ưu?

Đó không phải là giải pháp tối ưu. DATC chỉ là bà đỡ trong lúc khó khăn, đến khi DN đứng được trên đôi chân của mình thì có thể dần thoái vốn để hỗ trợ các DN khác. DATC là một bên đảm bảo, thu hồi dần vốn góp qua việc phát hành cổ phiếu, chuyển nợ thành vốn góp. Nếu việc thu nợ kéo dài thì cũng rất khó khăn cho DATC trong việc tiếp tục thực hiện các phương án mua bán nợ khác. Chúng tôi rất mong muốn các ngân hàng hợp tác với DATC trong việc tiếp tục cho DN vay vốn duy trì sản xuất - kinh doanh khi các khoản nợ xấu đã được xử lý triệt để, DN có lãi.

Liệu có tình trạng DN khách nợ giấu diếm thực trạng nợ nần để dễ dàng thương thảo với DATC, thưa ông?

Thực sự là vấn đề này là có nhưng không nhiều và nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động mua án nợ là phải phân loại DN. Qua kinh nghiệm của chúng tôi, khối DNNN khi tiếp xúc với DATC đều khá công khai thực trạng nợ xấu.
Đối với khối DN cổ phần tư nhân, một số đơn vị giấu diếm vì sợ công khai hết ra, DATC lại “ngại” không dám vào. Tất nhiên, cũng có đơn vị mà DATC chỉ tham gia xử lý một phần nợ, một phần phải khoanh lại vì tiềm lực có hạn.

Hiện nay, nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước có những khoản nợ đọng rất lớn trong nội bộ và các công ty thành viên. Theo ông, liệu DATC có thể tham gia mua bán nợ đối với các tập đoàn này?

DATC thật ra có thể làm được, nhưng đang bị mắc bởi cơ chế. Ví dụ, các khoản nợ của những đơn vị này đều rất lớn, nếu đòi hỏi phải mua 100% thì không thể. Chưa kể, nhiều khi các đơn vị định giá tài sản nợ cũng rất cao so với giá trị thực tế.
Với khối DNNN lớn, DATC đã tham gia mua nợ của khoảng 20 tổng công ty như Tổng công ty Xây dựng Thăng Long, Tổng công ty Xây dựng Miền Trung, Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng, Tổng công ty Xây dựng đường thủy, các tổng công ty xây dựng công trình giao thông, Tổng công ty Cà phê...
Trên thực tế, việc cơ cấu nợ khó khăn, phức tạp hơn nhiều so với việc cổ phần hóa (CPH), trong khi các quy trình được thực hiện như CPH, thậm chí phức tạp hơn. Đặc biệt, gần như DATC tự mày mò, tự nghiên cứu nên rất mất thời gian đối với từng thương vụ riêng rẽ. Do đó, nếu có sự chỉ đạo thống nhất về việc bán nợ xấu của các DNNN cho DATC và hành lang pháp lý rõ ràng hơn thì công tác xử lý nợ gắn với tái cơ cấu sẽ hiệu quả hơn.

Các DN đang chết hàng loạt. Để gỡ khó, bên cạnh các giải pháp hạ lãi suất, kích cầu, giảm thuế, thì làm sạch bảng cân đối kế toán có là một giải pháp?

Một trong những nguyên nhân dẫn đến khó khăn tài chính của các DN hiện nay là bắt nguồn từ hệ lụy của một giai đoạn dài nhận được những đồng vốn dễ dãi, dẫn đến đầu tư dễ dãi. Do đó, tất cả các biện pháp hỗ trợ về vốn đều không thành nếu DN nợ nần quá nhiều, không ngân hàng nào cho vay.
Như vụ việc tại CTCP Thủy sản Bình An mà DATC đang hỗ trợ, mặc dù dư luận nói rất nhiều, nhưng tôi cho rằng, DN này có thể thoát khỏi phá sản. Trong đó, phải có sự hợp tác của DN cũng như các chủ nợ, với nhiều giải pháp như giãn nợ, trả dần, tăng cường quản lý, thậm chí tăng vốn để tiếp tục sản xuất, thanh lý một số tài sản để có dòng tiền... Chứ đùng một cái, ông nào cũng vào đòi nợ thì DN chỉ có chết.

Hiện khả năng của DATC có thể mua nợ được bao nhiêu, thưa ông?

Theo tỷ lệ mua bình quân trong nhiều năm vừa qua thì DATC mua bình quân 28-30% nợ gốc. Như vậy, hiện DATC có thể xử lý được khoảng 5.000 tỷ đồng nợ xấu. Nếu muốn thực hiện tiếp sẽ phải quay vòng vốn. Đó là con số rất nhỏ, nên cần tăng tiềm lực cho DATC cũng như xã hội hóa hoạt động này.

Như vậy, tiềm lực của DATC là rất nhỏ so với quy mô nợ xấu của hệ thống DN. Được biết, DATC đã có đề án trình Bộ Tài chính một lộ trình, theo đó, trong giai đoạn 2011 - 2015 sẽ nâng quy mô hoạt động lên mô hình Tổng công ty, để có thể chủ động trong xử lý nợ, tái cấu trúc DN. Việc này đã được tiến hành đến đâu?

Chúng tôi đã có đề án để Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ. DATC cũng đang chủ động xây dựng đề án chi tiết nâng quy mô lên Tổng công ty, nghiên cứu dần tổ chức bộ máy để tăng đầu mối thực hiện theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị thành viên. Trong đó, có hướng lập thêm CTCP mua bán nợ.
Về vốn điều lệ, chúng tôi đề nghị tăng lên 5.000 tỷ đồng. Con số này thực tế vẫn rất ít so với tổng nợ của DNNN, nhưng quan điểm của chúng tôi là không nhất thiết phải quá nhiều. Nếu thiếu thì có thể có cơ chế được vay từ ngân sách, gắn với một lộ trình trả nợ cụ thể.
Tuy nhiên, tất cả đều đang ở giai đoạn đề xuất. Nguyên tắc của DATC hiện nay là những DN nào thu xong nợ là phải tính đến việc thoái vốn, nhất là những DN nhỏ. Đương nhiên, những DN lớn có tiềm lực thì lộ trình thoái vốn phải xem xét để có hiệu quả. Một số DN có thể giữ lại để sau này khi mạnh lên, có thể lại là đối tác của DATC đi góp vốn trong các thương vụ mua nợ khác.

Để tạo lập một thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp tại Việt Nam, theo ông, cần phải giải quyết những vấn đề gì?

Cho đến nay, trong danh mục ngành kinh tế quốc dân và các ngành nghề đăng ký kinh doanh, chưa có lĩnh vực mua bán nợ, tái cấu trúc DN. Điều đó khẳng định rằng, đây là một nghề chưa có ở nước ta và thị trường của hoạt động này vẫn chưa có. Khó khăn, thách thức vì thế còn rất nhiều. Riêng về hành lang pháp lý, theo tôi, cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần ban hành thông tư hướng dẫn riêng cho DATC trong tái cơ cấu đối với các DN có giá trị thực tế DN thấp hơn các khoản phải trả khi thực hiện CPH.
Thứ hai, đề nghị có quy định cụ thể về xử lý các khoản nợ xấu của NHTM và tổ chức tín dụng theo hướng tập trung bán nợ, khống chế thời hạn xử lý nợ, nếu quá thời hạn thì phải bán theo giá của tổ chức thẩm định trung gian.
Trong trường hợp nguồn vốn của DATC không đủ để thực hiện mua nợ gắn với tái cấu trúc DN thì đề nghị Nhà nước hỗ trợ vốn (có hoàn trả) cho DATC, hoặc phát hành trái phiếu DATC (được định kỳ định giá lại) để thực hiện xử lý nợ. Đồng thời, cần sớm sửa đổi quy định về xử lý nợ xấu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) theo hướng tạo quyền chủ động cho VDB như các NHTM.
Chỉ khi hình thành được một thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp, dần xã hội hóa hoạt động này, thì bài toán cởi bỏ nợ nần cho khối DN nói chung và DNNN nói riêng mới có lời giải trên diện rộng.

DATC và những con số:

Tính đến 30/4/2012, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) đã thực hiện được 114 phương án mua bán nợ và tài sản theo phương thức thỏa thuận để thực hiện tái cơ cấu DN và xử lý tài sản, thu hồi nợ. Trong đó:
Mua nợ để tái cấu trúc cho 73 DN. Đến nay đã hoàn thành chuyển nợ thành vốn góp, xử lý nợ gắn với tái cấu trúc được 44 DN, trong đó 23 DNNN kinh doanh thua lỗ, mất vốn nhà nước và 21 DN khác sản xuất kinh doanh không hiệu quả.
Mua nợ để thu hồi nợ tại 37 DN thông qua cơ cấu lại thời gian trả nợ, điều chỉnh lãi suất cho vay, giúp DN tồn tại, tiếp tục hoạt động và phát triển.
Mua tài sản để xử lý thu hồi tại 04 DN.
Tổng mệnh giá nợ và tài sản đã mua khoảng gần 8.000 tỷ đồng. Đã xử lý tồn tại tài chính cho DN khoảng 2.500 tỷ đồng.
Với số vốn nhà nước cấp ban đầu 2.000 tỷ đồng, qua gần 8 năm hoạt động, số vốn nhà nước thực có tại DATC thời điểm 31/12/2011 là 2.757 tỷ đồng so với vốn ban đầu (37,8%)


Nguồn: THEO ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN SỐ 56 NGÀY 9/5/2012
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 203
Tham gia ngày : 04/04/2012
Tuổi (Age) : 45
Đến từ : Hà Nội 2

https://vb2k11b.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Empty Tăng tốc xử lý nợ xấu: Tung tiền mặt hay lập Notes

Bài gửi  Admin Thu May 10, 2012 3:10 pm

Với lộ trình sẽ giải quyết hết nợ khu vực DNNN vào năm 2015 xem ra gánh nặng đối với Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) hiện nay là rất lớn. Với cơ chế hiện hành thì liệu DATC có thể hoàn thành nhiệm vụ này đúng hẹn không?

Chỉ mới tiếp cận khoảng 9% nợ xấu:

Mặc dù là công ty xử lý nợ mang tầm quốc gia duy nhất nhưng DATC vẫn chưa tiếp cận xử lý được nhiều các “món nợ tầm quốc gia”, chẳng hạn như nợ xấu tại Vinashin. Nhóm chuyên gia tư vấn cho DATC gần đây đánh giá: DATC hiện chưa được coi là tổ chức giữ vai trò chiến lược trong việc xử lý nợ xấu trên phạm vi nền kinh tế. Bởi giá trị các khoản nợ xấu mà DATC tiếp nhận mới chỉ gần bằng 9% khối lượng nợ xấu đã công bố. Đây là kết quả đáng suy nghĩ trong quá trình đất nước đẩy nhanh tái cơ cấu kinh tế, xử lý nợ xấu.

Một trong những nguyên nhân khiến việc tiếp cận, xử lý nợ xấu chưa được thực hiện tốt đó là do phương thức mua nợ. Hiện tại, DATC đang tiến hành thương thảo riêng biệt với từng chủ nợ và thanh toán nợ mua bằng tiền theo giá thỏa thuận nên rủi ro của đơn vị này khá cao. Vì DATC phải thu lại số tiền ít nhất bằng số tiền đã trả theo thỏa thuận với ngân hàng. Ngoài ra, một yêu cầu khá cấp thiết là cần cho các doanh nghiệp đang được tái cơ cấu vay vốn bổ sung để làm “vốn mồi” nhằm tạo thêm động lực cho các doanh nghiệp này sớm vượt qua ốm yếu, đảm bảo tái cơ cấu thành công hơn. Nhưng do chưa có đủ các biện pháp, quy trình quản lý rủi ro từ khâu quản trị doanh nghiệp của DATC cũng như khuôn khổ pháp lý nên chủ sở hữu của DATC (Bộ Tài chính) vẫn chưa đồng ý chủ trương này, vì vậy sự linh hoạt trong quá trình tái cơ cấu nợ có phần bị hạn chế.

Bên cạnh đó, hiện DATC và các ngân hàng thương mại đang có bất đồng về giá mua. Bởi mục tiêu cơ bản của DATC là bảo toàn vốn nhà nước nên DATC không thể chấp nhận rủi ro. Do vậy, họ có xu hướng chào giá mua thấp. Trong khi đó, ngân hàng ngần ngại không bán vì phải ghi nhận một khoản lỗ ngay khi bán và lo ngại bán với giá rẻ.

Không chỉ là tiền mặt

Để xử lý những vướng mắc về tài chính, đặc biệt là sự bất đồng về giá giữa DATC và các ngân hàng, đồng thời tạo lợi ích đồng bộ cho cả DATC, Bộ Tài chính và ngân hàng, trong một cuộc hội thảo mới đây về mô hình hoạt động của DATC, một số ý kiến cho rằng: Song song với việc mua bán nợ bằng tiền mặt, DATC cần lập một mô hình mới là DATC Notes. DATC Notes là giấy biên nhận bảo đảm bằng một số khoản nợ được mua gắn với số tiền thực tế thu hồi để các ngân hàng có thể tham gia. Tức là, DATC trả cho các khoản nợ vừa bằng tiền mặt vừa bằng giấy biên nhận. DATC Notes sẽ nêu rõ tỷ lệ chia sẻ từ các khoản tiền thu được từ các khoản nợ này trong tương lai sẽ trả lại cho ngân hàng cho vay sau khi DATC thu được lại khoản tiền đã bỏ ra ban đầu (cộng với một khoản lợi nhuận được thỏa thuận). DATC Notes được đánh giá lại hàng năm bởi DATC, cho phép các ngân hàng ghi nhận các khoản lỗ theo một thời gian thích hợp. Phân bổ khoản lỗ trong một thời gian nhất định.

Tuy nhiên, một số chuyên gia lại cho rằng: Giá của Notes không quan trọng vì phần tiền mặt ban đầu thấp hơn rất nhiều so với giá trị khoản nợ có thể thu hồi và phần chia bổ sung các khoản thu hồi được sau này. Vì vậy, trong một số trường hợp, việc phân bổ khoản tiền thu hồi được sau này giữa các chủ nợ và DATC không thỏa thuận được thì cần có chuyên gia phân xử về giá để xác định việc chia.
Với DATC Notes, DATC sẽ đảm bảo bù đắp chi phí hoạt động và chi phí vốn. Trong khi ngân hàng tiếp tục giữ được quyền thu hồi nợ bổ sung bằng các khoản thu hồi từ nợ xấu sau này.

DATC Notes - Bớt rủi ro, tăng nguồn lực

Mô hình mới sẽ cho phép chuyển giao nhanh các khoản nợ cho DATC tái cơ cấu, qua đó, giảm đáng kể rủi ro mất vốn của nhà nước, giảm thời gian thương thảo về giá. Đồng thời, nếu áp dụng mô hình này DATC sẽ tạo được sự độc lập hơn, ngoài ra còn chia sẻ được một khoản lỗ cho các ngân hàng thông qua khoản ghi nợ.

Bên cạnh đó, DATC Notes sẽ cung cấp cho ngân hàng một cơ chế có thể tạo ra kết quả tốt hơn là cố gắng tự xử lý. Theo đó, các ngân hàng mẹ chuyển giao chính thức các khoản vay với một mức giá được thống nhất cho các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng (AMC) và có thể cho các AMC công khai đấu giá các khoản nợ xấu. Đặc biệt, cơ chế mới sẽ tạo lợi ích đồng bộ đối với cả DATC, Bộ Tài chính và các ngân hàng. Cụ thể, đối với DATC, mặc dù vẫn phải trả một ít tiền và vẫn có một số rủi ro nhưng sẽ phải cẩn thận trong việc soát xét đặc biệt và thu hồi nợ. Nghĩa là, DATC vẫn có động lực về lợi nhuận nhưng với mức độ rủi ro thấp hơn và DATC không có rủi ro mua nợ ở mức giá quá cao. Với DATC Notes, cam kết trả tiền mặt trước của DATC sẽ ít hơn, làm như vậy sẽ khả thi hơn biện pháp bỏ vốn đầu tư bổ sung vào các công ty như hiện nay DATC vẫn làm, bởi vì vốn này ưu tiên thu hồi đầu tiên. Những tiện ích của DATC Notes sẽ giúp hoạt động của DATC có kết quả tốt hơn, tích cực hơn vì có cơ chế khuyến khích để thực hiện công việc.

Đối với Bộ Tài chính, với DATC Notes, DATC sẽ cam kết vốn ít hơn cho một trường hợp và có tỷ lệ thu hồi dự kiến cao hơn tiền trả ban đầu, giảm thấp nhất rủi ro cho vốn nhà nước. Do đó, Bộ Tài chính sẽ không còn nhiều quan ngại về vấn đề sử dụng vốn mua nợ ở DATC. Như vậy, DATC có thể tư do hoạt động để đạt hiệu quả cao hơn. Các trường hợp nợ sẽ được chuyển giao cho DATC dễ dàng hơn. Theo đó, xử lý nợ tổng thể sẽ tăng lên. DATC có thể xử lý được rất nhiều nợ xấu cùng một lượng vốn nhất định. Nợ xấu sẽ được xử lý hiệu quả.

Đối với các ngân hàng, DATC Notes sẽ giảm rủi ro lúng túng do lo ngại giá bán quá thấp. Mặt khác, do không có giá chuyển nhượng nên ngân hàng vừa nhận được một số tiền ban đầu vừa có lợi nhuận một phần của khoản thu hồi. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể nhanh chóng chuyển nhượng rất nhiều khoản nợ xấu cho DATC và tập trung vào phát triển ngân hàng tốt. Cùng với đó, ngân hàng có thể phân bổ khoản lỗ theo thời gian thu hồi, việc này sẽ dễ quản lý hơn là ghi toàn bộ vào lỗ trong kỳ. Vì vậy, với một công thức sẵn chung, nghĩa là “giá” không quan trọng bời vì họ sẽ nhận được tiền thêm nếu việc tái cơ cấu thực hiện tốt. Các ngân hàng sẽ được khuyến khích bởi vừa có thể lấy được một khoản tiền mặt ngay ban đầu và vừa chuyển giao được nhanh chóng các khoản nợ xấu. Nắm giữ Notes cho phép ngân hàng phân bổ khoản lỗ vào nhiều năm, do vậy không bị hích mạnh khi bán/chuyển giao nợ xấu.

Hơn nữa, do DATC có năng lực mà các AMC của ngân hàng không có, đó là DATC có thể xử lý các khoản nợ vay hợp vốn, kết dính các ngân hàng cùng xử lý. Đặc biệt, đối với những công ty có nợ xấu có vay nhiều ngân hàng thì một AMC độc lập với ngân hàng là nơi tốt nhất để xử lý các yêu cầu đòi tiền cạnh tranh với nhau. Mặt khác, DATC có nhiều quyền lực để tái cơ cấu tốt hơn so với các AMC của ngân hàng như: trong một số trường hợp DATC có thể cho vay hỗ trợ tạm thời hoặc bảo lãnh để doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. Ngoài ra, DATC còn tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược tham gia đầu tư, hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý để doanh nghiệp khách nợ tái cơ cấu một cách hiệu quả nhất.

Tuy nhiên, DATC Notes vẫn tồn tại một số rủi ro (cần đảm bảo khả năng thu hồi lớn hơn so với tiền mặt) tập trung vào khả năng thu hồi. Vì vậy, trước khi mua nợ DATC cần có sự cân nhắc kỹ số vốn bỏ ra với một tỷ lệ nhất định, đồng thời giữa DATC và ngân hàng cần có sự đồng thuận về giá mua ban đầu, tỷ lệ phân phối lợi nhuận sau khi đã hoàn thành tái cơ cấu.

Như vậy, với mô hình mới, DATC sẽ đảm nhiệm phần lớn các công việc tái cơ cấu, việc thu hồi nợ từ tài sản bảo đảm sẽ do các ngân hàng đảm nhận. Trong đó, Ngân hàng cần có sự khuyến khích tích cực để chuyển giao và DATC cần có sự khuyến khích tích cực để nhận các khoản nợ.

Nguồn: THEO TẠP CHÍ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP SỐ 4/2012
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 203
Tham gia ngày : 04/04/2012
Tuổi (Age) : 45
Đến từ : Hà Nội 2

https://vb2k11b.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Empty Quy trình tiếp nhận nợ và tài sản tồn đọng

Bài gửi  Admin Thu May 10, 2012 3:17 pm

Quy trình tiếp nhận nợ và tài sản tồn đọng loại trừ khỏi giá trị của doanh nghiệp khi cổ phần hóa

Tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ trên sổ sách kế toán:

1. Thống nhất với bên giao kế hoạch bàn giao, tiếp nhận.

- Căn cứ kế hoạch chung về tiếp nhận nợ và tài sản được Lãnh đạo Công ty phê duyệt và thông tin, số liệu đã thu thập được về doanh nghiệp có tài sản loại trừ, DATC liên hệ với bên giao trao đổi và thống nhất kế hoạch bàn giao, tiếp nhận cụ thể.

- Thống nhất với đại diện chủ sở hữu: Có văn bản chỉ đạo các doanh nghiệp đã có quyết định công bố giá trị doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu có nợ và tài sản loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp (chưa bàn giao cho Công ty mua bán nợ) thực hiện bàn giao cho DATC. Yêu cầu doanh nghiệp giữ hộ tài sản chuẩn bị hồ sơ, tài liệu và biểu mẫu báo cáo (theo mẫu gửi kèm), gửi cho đại diện chủ sở hữu và DATC để chuẩn bị cho việc ký Biên bản bàn giao, tiếp nhận.

- Thông báo với doanh nghiệp giữ hộ tài sản: chuẩn bị hồ sơ, tài liệu và biểu mẫu báo cáo (do đại diện chủ sở hữu gửi hoặc DATC gửi cho doanh nghiệp) theo qui định. Gửi hồ sơ, tài liệu và biểu mẫu báo cáo cho đại diện chủ sở hữu và DATC để chuẩn bị cho việc bàn giao, tiếp nhận nợ và tài sản.

2. Biểu mẫu, hướng dẫn doanh nghiệp lập báo cáo, chuẩn bị hồ sơ, tài liệu giao nhận trên sổ sách.

2.1. Các biểu mẫu báo cáo (các Bảng thống kê, phân loại nợ và tài sản loại trừ để bàn giao) cho đại diện chủ sở hữu và doanh nghiệp giữ hộ tài sản, bao gồm:

- Bảng tổng hợp thống kê và phân loại tài sản loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp để bàn giao (Mẫu 01: THTS/MBN);

- Bảng kê chi tiết và phân loại tài sản cố định loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp để bàn giao (Mẫu 02: TSCĐ/MBN);

- Bảng kê chi tiết và phân loại vật tư, hàng hoá tồn kho loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp để bàn giao (Mẫu 03: VTHH/MBN);

- Bảng kê chi tiết và phân loại nợ phải thu khó đòi loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp để bàn giao (Mẫu 04: NPT/MBN);

- Bảng danh mục chi tiết hồ sơ, tài liệu có liên quan đến các khoản nợ phải thu khó đòi loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp để bàn giao (Mẫu 04.1: NPT.DM/MBN);

2.2. Lập báo cáo, chuẩn bị hồ sơ, tài liệu có liên quan gửi cho đại diện chủ sở hữu và DATC bao gồm:

- Các bảng thống kê, phân loại nợ và tài sản loại trừ để bàn giao của doanh nghiệp theo qui định tại điểm 2.1 nói trên.

- Quyết định công bố giá trị doanh nghiệp hoặc quyết định điều chỉnh phần vốn nhà nước tại thời điểm chuyển đổi của cấp có thẩm quyền (nếu có).

- Các hồ sơ, tài liệu liên quan đến các khoản nợ và tài sản loại trừ doanh nghiệp đã tự xử lý trước thời điểm bàn giao; Các hồ sơ, tài liệu liên quan khác (nếu có).

2.3. Việc giao nhận được thực hiện theo 2 bước:

- Giao nhận trên sổ sách: Để xác lập tư­ cách pháp lý về chủ quyền của DATC (bên nhận) về nợ và tài sản để có thể tiến hành hợp pháp các hoạt động thu hồi, xử lý nợ và tài sản.

- Giao nhận theo thực tế: Việc giao nhận theo thực tế nợ và tài sản được thực hiện trong quá trình xử lý nợ và tài sản.

3. Kiểm tra hồ sơ, thống nhất với bên giao.

- Sau khi nhận được báo cáo, hồ sơ, tài liệu của Bên giao, DATC tiến hành kiểm tra số liệu mẫu biểu. Đối chiếu giá trị nợ và tài sản loại trừ với quyết định công bố giá trị doanh nghiệp hoặc quyết định điều chỉnh phần vốn nhà nước tại thời điểm chuyển đổi của cấp có thẩm quyền (nếu có); tài sản loại trừ doanh nghiệp đã tự xử lý trước thời điểm bàn giao; tài sản không thuộc diện bàn giao (tài sản thuộc diện phải chuyển giao); tài sản bị thiếu hụt mất mát trước thời điểm bàn giao (nếu có); tài sản bàn giao cho DATC.

- Đối với tài sản loại trừ doanh nghiệp đã tự xử lý trước thời điểm bàn giao cán bộ kiểm tra hồ sơ tài liệu có liên quan để xác định thời điểm doanh nghiệp xử lý tài sản trước hay sau ngày có Quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, số tiền thu hồi đã nộp, chưa nộp để có kiến nghị xử lý tại biên bản bàn giao.

- Làm rõ, điều chỉnh số liệu, bổ sung tài liệu (nếu cần) để thống nhất số liệu và hồ sơ giao nhận.

4. Ký Biên bản bàn giao nợ và tài sản loại trừ trên sổ sách:

4.1. Sau khi đã kiểm tra, thống nhất số liệu và hồ sơ giao nhận, DATC dự thảo Biên bản bàn giao nợ và tài sản loại trừ trên sổ sách.

Nội dung chính của Biên bản bàn giao bao gồm:

- Số lượng, giá trị theo sổ kế toán các khoản nợ, tài sản loại trừ tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.

- Số lượng, giá trị theo sổ kế toán và trách nhiệm của bên giao đối với các khoản nợ, tài sản loại trừ doanh nghiệp đã tự xử lý trước trước và sau ngày có Quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, số tiền thu hồi đã nộp theo quy định, số còn phải nộp DATC.

- Số lượng, giá trị theo sổ kế toán và trách nhiệm của bên giao đối với tài sản loại trừ thuộc diện phải chuyển giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành địa phương theo quy định.

- Số lượng, giá trị theo sổ kế toán và trách nhiệm của các bên đối với các khoản nợ, tài sản loại trừ bàn giao cho DATC.

- Chênh lệch do thiếu hụt, mất mát và các lý do khác (nêu rõ nguyên nhân đối với từng trường hợp cụ thể) và trách nhiệm của bên giao đối với việc xử lý các tài sản này.

- Các mẫu biểu báo cáo theo quy định tại điểm 2.1 (kèm theo biên bản)

5. Tiếp nhận hồ sơ nợ (nếu có):

Sau khi ký Biên bản bàn giao trên sổ sách, DATC cùng với doanh nghiệp bàn giao theo nguyên trạng toàn bộ hồ sơ, tài liệu có liên quan kèm theo danh mục và thuyết minh về các khoản nợ loại trừ bàn giao cho DATC.

Nguồn DATC
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 203
Tham gia ngày : 04/04/2012
Tuổi (Age) : 45
Đến từ : Hà Nội 2

https://vb2k11b.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Empty Giải pháp nào cho mua bán nợ?

Bài gửi  Admin Thu May 17, 2012 11:10 am

Xử lý nợ xấu là một hoạt động quan trọng trong tái cấu trúc DNNN, nhưng đang gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. ĐTCK ghi nhận một số ý kiến để cải thiện tình trạng này.

“Cấp thiết tăng quy mô và tiềm lực”

Đó là ý kiến của ông Phạm Phan Quang, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC).
Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120509112222t28_PPQuang
Ông Phạm Phan Quang - Chủ tịch HĐTV Công ty Mua bán nợ Việt Nam

Ông Quang nói:
Tái cơ cấu DNNN là một trong những trụ cột của Chiến lược tái cấu trúc nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện thành công tiến trình này, điểm mấu chốt chính là phải xử lý dứt điểm các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DN thực hiện tái cấu trúc.

Đây cũng là cơ hội để thị trường mua bán nợ Việt Nam nói chung phát triển và DATC vào cuộc mạnh mẽ hơn trong việc xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng tại các DNNN nói riêng và cộng đồng DN nói chung.
Trên thực tế, sau hơn 7 năm được DATC triển khai, hoạt động tái cơ cấu DN thông qua xử lý nợ đã chứng tỏ là một trong những công cụ, phương thức tài chính hữu hiệu của Nhà nước để cứu các DNNN thoát khỏi nguy cơ phá sản và phát triển trở lại.

Tính đến 30/4/2012, đã có 73 DN được DATC mua nợ để thực hiện tái cơ cấu. Đây là một kết quả rất tích cực nếu so sánh với kết quả cổ phần hóa (CPH) DNNN trong thời gian qua. Điều đáng ghi nhận hơn cả là các DN được Công ty tái cơ cấu đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều DN đã có lợi nhuận cao chỉ sau một thời gian ngắn được tái cơ cấu.

Trong 8 năm hoạt động, DATC đã mua được gần 8.000 tỷ đồng nợ tồn đọng, trong đó, hơn 90% là nợ được mua từ các NHTM nhà nước và khoảng 92% được mua từ năm 2007 đến nay là gắn với tái cơ cấu DN khách nợ.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế, khi mà rất nhiều DN, đặc biệt là khối DNNN đang gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh với gánh nặng nợ phải trả rất lớn và nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đang gia tăng nhanh chóng, quy mô và tiềm lực tài chính của DATC chưa cho phép Công ty thực hiện các chương trình mua bán nợ gắn với tái cơ cấu dài hơi, hoặc mua nợ tại các tập đoàn, tổng công ty lớn.

Chính vì vậy, để DATC có thể phát huy tốt hơn vai trò của mình trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng cũng như trong tiến trình tái cấu trúc các DN, bên cạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp, quy mô và tiềm lực tài chính của DATC cấp thiết cần được nâng lên.

Theo đó, từ nay đến 2015, DATC sẽ tiếp tục củng cố, kiện toàn và đề xuất nâng quy mô hoạt động hiện tại lên mô hình Tổng công ty với số vốn điều lệ tối thiểu khoảng 5.000 tỷ đồng, để có thể chủ động trong xử lý nợ, tái cấu trúc DN, nhất là các DNNN lớn. Bên cạnh đó, thực hiện xã hội hóa hoạt động mua bán nợ theo hướng thí điểm thành lập CTCP xử lý nợ, trong đó có sự tham gia góp vốn của DATC cũng là một hướng đi mà chúng tôi đang tính đến.

Cần bổ sung cơ chế xử lý nợ”
Đó là ý kiến của ông Nguyễn Huy Hiền, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Xây dựng đường thủy.

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120509112324t28_nguyen%20huy%20hien
Ông Nguyễn Huy Hiền - Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Xây dựng Đường thủy

Ông Hiền nói:
Tái cơ cấu DN hiện là vấn đề cấp thiết đối với nhiều DNNN, nhằm tạo ra những DN mới năng động hơn, hoạt động hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, để tái cơ cấu thành công, cần phải có bước đánh giá, xử lý những tồn đọng, đặc biệt là xử lý công nợ và tài sản tồn đọng. Những định chế tài chính như DATC đã đáp ứng yêu cầu giúp các DNNN xử lý được công nợ tồn đọng, cơ cấu lại công nợ, cơ cấu lại tài chính hợp lý, đáp ứng đủ điều kiện cơ bản để cơ cấu lại tổ chức, sắp xếp, đổi mới DNNN theo mô hình mới hiệu quả hơn.

Thời gian vừa qua, DATC đã hỗ trợ nhiều DNNN cơ cấu nợ để chuyển thành CTCP (phần lớn những đơn vị này nếu không được DATC cơ cấu nợ sẽ phải giải tán hoặc phá sản). Tuy nhiên, tiến trình xử lý còn quá chậm, thông thường từ khi mua bán nợ xong đến khi CPH xong mất 2 - 3 năm, nguyên nhân chủ yếu do thiếu cơ chế, hoặc cơ chế chưa rõ ràng, cụ thể. Mỗi đơn vị từ khi mua bán nợ đến khi CPH xong, ít nhất phải trình Thủ tướng Chính phủ xin xử lý tình huống cụ thể một lần. Việc chậm trễ làm tăng thêm thua lỗ, thêm khó khăn cho DN, đồng thời mất nhiều cơ hội trong sản xuất - kinh doanh. Để khắc phục những tồn tại hiện nay, cần bổ sung cụ thể cơ chế xử lý cho DATC và cơ chế cho các DNNN thuộc diện cơ cấu nợ thông qua mua bán nợ, ví dụ:

- Quy định cụ thể về việc được chuyển nợ thành vốn góp của DATC và của các tổng công ty đối với DN thành viên chuyển đổi.

- Trường hợp sau khi xử lý tài chính, đánh giá lại vẫn còn âm vốn chủ sở hữu, nhưng thị trường chấp nhận, cổ đông chấp thuận mua cổ phần, đề nghị bộ chủ quản vẫn phê duyệt giá trị DN và phê duyệt phương án xử lý tài chính để làm căn cứ chuyển DNNN thành CTCP.

- Bổ sung quyền hạn cho DATC để Công ty chủ động hơn trong việc quyết định các phương án mua bán nợ và xử lý nợ. Ví dụ, quy định hiện nay, sau khi mua nợ, DATC được giảm trừ trách nhiệm trả nợ cho DNNN bằng số âm vốn chủ sở hữu là hơi cứng nhắc. Nên quy định giao cho đơn vị mua bán nợ chủ động quyết định (dựa trên nguồn lực thực tế) sau khi cơ cấu nợ, vốn nhà nước tại DNNN vẫn còn, thì việc CPH sẽ hiệu quả hơn.

Không nên tính lãi vay và phạt chậm trả
"DN nợ ngân hàng, ngân hàng vẫn tính lãi và bị phạt nếu chậm trả. Trong khi đó, các chủ đầu tư nợ DN (chủ đầu tư hầu hết phụ thuộc vào vốn của Nhà nước) lại không tính lãi cho các DN, làm cho DN thêm khó khăn".

Ông Phạm Dũng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (Cienco1) cho biết về những khó khăn mà các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, xây lắp gặp phải trong quá trình hoạt động.
Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120509112530t28_pham%20dung
Ông Phạm Dũng - Chủ tịch HDTV Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 (Cienco1)

Ông Dũng nói:
Cienco1 có một số đơn vị thành viên là DNNN độc lập có tình hình tài chính xấu. Cụ thể là nợ ngân hàng có số dư cao, không thể trả lãi và gốc. Nguyên nhân là do các chủ đầu tư nợ DN và DN quản lý yếu kém, đấu thầu bỏ giá thấp nên dẫn đến không đủ chi phí hoạt động. Các DN này vẫn còn khá đông lao động và có máy móc thiết bị thi công. Để CPH được các DN này, phải xử lý tài chính bằng hình thức mua bán nợ.

Chủ trương của Chính phủ là giúp DNNN có đủ điều kiện CPH (đặc biệt là về tài chính), kể cả việc hỗ trợ các DN đã CPH. Nếu DN phá sản hoặc giải thể sẽ ảnh hưởng đến đời sống người lao động do mất việc làm, Nhà nước mất một lực lượng lao động có tay nghề đã được đào tạo…

DATC được quyền đàm phán, mua nợ với ngân hàng và các tổ chức, được giảm trừ trách nhiệm trả nợ toàn bộ phần nợ lãi và một phần nợ gốc phải trả tương ứng với phần âm vốn chủ sở hữu của DN đã tạo điều kiện cho tái cấu trúc DN trước khi cổ phần hóa và DN đã cổ phần hóa.

Tuy nhiên, có một vướng mắc rất lớn là bản thân DN nợ ngân hàng, ngân hàng vẫn tính lãi và bị phạt nếu chậm trả. Trong khi đó, các chủ đầu tư nợ DN (chủ đầu tư hầu hết phụ thuộc vào vốn của Nhà nước) lại không tính lãi cho các DN, làm cho DN thêm khó khăn.

Ngoài ra, khi thực hiện bán nợ cho DATC, DN phải bỏ ra một khoản tiền nhất định tương ứng với giá trị khoản mua của DATC với chủ nợ (thường là ngân hàng), khiến DN gặp khó khăn. Có ngân hàng không muốn bán nợ hoặc bán với giá rất cao nên DATC không thể mua được - thực chất là DN vẫn phải trả hoặc nợ DATC khoản mua này.

Bên cạnh đó, việc thực hiện mua bán nợ với ngân hàng chỉ được thực hiện khi DN không có khả năng trả nợ 2 - 3 năm trở lên, một số ít ngân hàng mới xem xét bán nợ. Như thế, thời gian quá dài, vì trong thời gian này, DN không được bảo lãnh vay vốn, có nghĩa là rất khó khăn trong sản xuất - kinh doanh.

Quỹ xử lý nợ xấu thực hiện tái cơ cấu DN” và cơ chế DATC-Notes: Mũi tên trúng nhiều đích
Đó là ý kiến của ông Phạm Mạnh Thường, Phó Tổng Giám đốc Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) về quá trình cơ cấu lại các DNNN.

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120326103136PhamManhThuongDATC
Ông Phạm Mạnh Thường - Phó Tổng Giám đốc Công ty Mua bán nợ Việt Nam

Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, khá nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước có hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần, thậm chí 10 lần. Sử dụng đòn bẩy tài chính cao góp phần mở rộng hoạt động và tăng khả năng sinh lời, nhưng khi trục trặc kinh doanh hay khó khăn tài chính xảy ra, DN sẽ rất khó kiểm soát được dòng tiền, chi phí vốn cao do vay nhiều gặp khi kinh doanh sa sút khiến DN có nguy cơ mất khả năng trả nợ, thậm chí phá sản. Khi nợ xấu tăng, NHTM cũng chịu rủi ro vì phải trích lập dự phòng nhiều, gây tác động xấu đến chất lượng tài sản, tín dụng, khả năng thanh khoản giảm. Với nền kinh tế, nếu nợ xấu diễn ra ở phạm vi rộng mà không được xử lý kịp thời sẽ làm thanh khoản của cả hệ thống giảm sút, làm tăng nguy cơ suy thoái kinh tế.

Diễn biến của nền kinh tế thực và nền kinh tế tiền tệ ở nước ta thời gian qua đã minh chứng cho điều này.
Vì vậy, hoạt động mua bán nợ không chỉ giúp giải quyết bài toán nợ xấu ngân hàng, mà còn hỗ trợ DN cân đối lại tình trạng tài chính, làm tăng thanh khoản cho cả nền kinh tế. Bởi vì, nếu tài chính không được làm “sạch”, DN sẽ ở mãi trong vòng luẩn quẩn: nợ xấu, lãi vay lớn, kinh doanh thua lỗ và không có dòng tiền mới để cải thiện kinh doanh. Bản thân ngân hàng cũng không thể thu hồi được các khoản nợ và nếu để tự xử lý thì ngân hàng vừa mất thời gian vừa không có chuyên môn sâu để tối đa hóa giá trị thu hồi. Trong suy thoái, giá trị tài sản cầm cố bị định giá thấp và nợ xấu thường mất giá nhanh, vì thế mua bán nợ là một công cụ hữu hiệu để vừa giúp duy trì tình trạng “sống” cho tài sản, vừa giúp ngân hàng chuyển hóa “vốn chết” thành “vốn sống”.
Mua bán nợ xấu là một thị trường có tiềm năng, tuy rằng còn sơ khai do cung lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả. Điều khó khăn hiện nay là các NHTM dù ý thức được yêu cầu xử lý nhưng hiện họ không buộc phải làm nhanh nên việc bán nợ còn rất dè dặt: không tự thu hồi được thì bán, từ từ đàm phán được giá thì bán, còn không thì cứ treo ở đó.

Đối với DATC, tuy có dáng dấp của một tổ chức xử lý nợ quốc gia - công cụ chính sách được sử dụng phổ biến ở nhiều nước khi đối phó với vấn nạn nợ xấu cao, nhưng DATC lại thiếu những chế tài đặc thù để có thể hoạt động hiệu quả. Trong đó, việc còn thiếu cơ chế hình thành và sử dụng quỹ tài chính đủ lớn để xử lý nợ xấu và hỗ trợ vốn cho DN tái cơ cấu có lẽ là điều cần được khắc phục nhất lúc này. Nếu để kinh doanh có lợi nhuận như mô hình hiện tại thì DATC sẽ phải thận trọng trong từng giao dịch mua nợ xấu để còn có lãi khi xử lý, nên tổ chức này không thể xử lý nhanh trên quy mô lớn để vừa “giải” gánh nặng nợ xấu cho hệ thống tài chính, vừa “cứu” các DN mắc nợ - một mong muốn mà Chính phủ đang trăn trở tìm cách gỡ.

Bên cạnh nhiều động thái khác, nên chăng Chính phủ thành lập “Quỹ xử lý nợ xấu thực hiện tái cơ cấu DN” và giao DATC vận hành với mục đích tối thiểu hóa chi phí xử lý nợ xấu và tái cơ cấu DN (chứ không phải để kiếm lợi nhuận cho Quỹ). Quỹ hình thành từ vốn nhà nước, từ đóng góp của ngân hàng, từ chứng khoán hóa nợ xấu chuyển giao cho Quỹ và từ cơ chế phát hành trái phiếu ghi nợ DATC- Notes. DATC sử dụng Quỹ để mua/tiếp nhận nợ xấu từ các ngân hàng có nợ xấu cao cần giải cứu và thực hiện tái cấu trúc DN mắc nợ, qua đó, tăng cường thanh khoản cho ngân hàng. Với DN mắc nợ có tiềm năng, DATC sẽ tái cơ cấu DN để thu hồi nợ. Do các DN này thường khó vay vốn mới vì ngân hàng không muốn cho vay thêm, nên để thành công, DATC có thể sử dụng Quỹ để hỗ trợ vốn trong giai đoạn đầu DN tái cơ cấu, phục hồi hoạt động.

DATC-Notes cũng là một cơ chế khả thi để xử lý nợ xấu quy mô lớn khi nguồn lực tài chính có hạn. Khi mua/tiếp nhận nợ xấu, DATC sẽ trả ngân hàng một phần hợp lý bằng tiền mặt và phần còn lại (chênh lệch giữa mệnh giá nợ trừ đi dự phòng đã trích và số tiền được thanh toán) được DATC trả bằng DATC-Notes có thời hạn 5-7 năm. Trái phiếu ghi nợ này được coi là một tài sản tài chính, ngân hàng sẽ hạch toán theo mệnh giá, nên không làm phát sinh lỗ ngay lập tức do bán nợ xấu như cơ chế mua bán thông thường và như thế sẽ khuyến khích ngân hàng bán nợ. Hàng năm, DATC sẽ định giá và ngân hàng sẽ ghi nhận lại giá trị DATC-Notes theo thông báo của DATC và nếu bị giảm giá thì phần giảm được hạch toán vào chi phí. Tiền thu hồi từ các khoản nợ xấu được dùng để bù đắp số tiền mặt DATC đã trả, phần lời ra được chia sẻ một phần cho ngân hàng và phần còn lại là lợi nhuận DATC thu về. Ngoài ra, DATC-Notes cũng nên được Ngân hàng Nhà nước nắm giữ và tái cấp vốn khi cần duy trì thanh khoản cho ngân hàng.

Mô hình Quỹ và cơ chế DATC-Notes đã được áp dụng thành công ở nhiều nước. Với thực tế Việt Nam, mô hình này cũng có tính khả thi cao. Thứ nhất, giúp xử lý nợ xấu trên quy mô lớn, tạo thanh khoản cho toàn hệ thống tài chính với nguồn kinh phí thấp nhất. Thứ hai, giúp tái cơ cấu để phục hồi hoạt động cho hàng chục DN mắc nợ, đặc biệt là các DNNN thực hiện đề án tái cơ cấu. Thứ ba, để vừa chống suy thoái kinh tế, vừa không làm mất đi các nguồn lực sẵn có, vừa duy trì công ăn việc làm cho người lao động để ổn định chính trị xã hội. Thứ tư, với vai trò công cụ chính sách, DATC có nguồn tiền được xã hội hóa; qua đó, để Nhà nước thể hiện rõ ràng hơn vai trò dẫn dắt nền kinh tế đi qua giai đoạn khó khăn.

Tin rằng, mô hình “Quỹ xử lý nợ xấu thực hiện tái cơ cấu DN” và cơ chế DATC-Notes sẽ giúp “bàn tay hữu hình” bung một mũi tên nhưng trúng nhiều đích.

Mua nợ chỉ là bước ban đầu
Đó là ý kiến của ông Lưu Văn Kính, Trưởng phòng Mua bán nợ, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) về quá trình cơ cấu lại các DNNN.

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120509112622t28_akinh
Ông Lưu Văn Kính - Trưởng phòng Mua bán nợ, DATC

Ông Kính nói:

DATC đang tập trung ưu tiên xử lý nợ để cơ cấu lại các DNNN, tiếp theo đó là các DN cổ phần được chuyển đổi từ DNNN. Đối với những DN khác, chúng tôi vẫn triển khai mua nợ bình thường.

Trên thực tế, các DN nợ nần đều là con nợ của các ngân hàng. Thông qua hoạt động mua bán nợ, đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa DATC - DN khách nợ - ngân hàng để tháo gỡ khó khăn.

Tuy nhiên, mua nợ chỉ là quá trình ban đầu, sau đó phải có lộ trình tái cơ cấu với những bước đi cụ thể là:
- Chủ động đến DN có nợ xấu để nắm bắt tìm hiểu, đánh giá toàn bộ tình hình DN, quan trọng là tồn tại tài chính, quản trị để biết phải xử lý cái gì.

- Sau đó, xây dựng phương án mua nợ, cơ cấu lại nợ và các nội dung khác liên quan đến việc chuyển đổi (đối với DNNN) trình cấp có thẩm quyền của DATC phê duyệt và nếu được thì đến khâu đàm phán với các ngân hàng về giá trị các khoản nợ.

- Tiếp theo, phối hợp với các DN trình cơ quan chủ quản của DN xây dựng lộ trình cơ cấu gồm: xác định giá trị DN, trình bộ chủ quản phương án chuyển đổi DN. Sau đó lựa chọn đơn vị xác định giá trị DN.

Trong hoạt động mua bán nợ, năng lực mua bán nợ không phải là vấn đề lớn nhất, vướng nhất là cơ chế, chính sách chưa đầy đủ. Ví dụ, Thông tư 59/TT-BTC về chuyển đổi DNNN quy định: đối với các DN không còn vốn nhà nước thì bộ chủ quản của DN thỏa thuận với DATC về phương án tái cơ cấu, nhưng nội dung, điều khoản thỏa thuận như thế nào lại chưa có quy định. DATC đang đề nghị có văn bản hướng dẫn riêng đối với các đơn vị không còn vốn nhà nước sẽ tái cơ cấu qua mua bán nợ.

Thứ hai, trong quá trình triển khai cơ cấu lại DN, hiện còn vướng trong việc mua nợ đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Có nhiều DN nợ cả NHTM lẫn VDB, mua được nợ ở các ngân NHTM nhưng lại tắc ở VDB.

Thứ ba, các NHTM nhà nước cần đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu theo chủ trương của Chính phủ, vì có đẩy nhanh việc này thì DATC mới có nguồn hàng hóa để thực hiện nhiệm vụ của mình. Các ngân hàng thực tế có đặc tính là các khoản nợ của DN nhiều khi để ra ngoại bảng, nhưng khi làm việc với mua bán nợ lại muốn bán với giá cao.

Phải làm rõ các tiêu chí mua bán nợ
Nhiều ý kiến cho rằng, muốn đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu DNNN, cần triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó nên sớm hình thành thị trường mua bán nợ, để xử lý hiệu quả, minh bạch nợ xấu của các DNNN.

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120509135939le-dang-doanh
TS. Lê Đăng Doanh

Muốn thị trường mua bán nợ hoạt động minh bạch, hiệu quả phải bắt đầu từ công khai trung thực bức tranh nợ xấu của các DNNN, thưa ông?
Đúng như vậy, bởi thực trạng nợ xấu của khối DNNN hiện không rõ ràng, mặc dù theo cảm nhận chung là tỷ lệ này khá lớn trong cơ cấu nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tuy là chủ sở hữu của các DNNN, nhưng người dân không biết các DN này đang nợ bao nhiêu, trong đó có những khoản nào là nợ xấu, nợ ai, vì sao rơi vào nợ xấu, phương án khắc phục tình trạng này ra sao… Chỉ khi những câu hỏi này được làm rõ, thì mới phân loại được tính chất của các khoản nợ, trên cơ sở đó mới xây dựng được phương án tái cấu trúc DNNN, trong đó có cổ phần hóa đảm bảo tính khả thi.

Theo ông, nợ xấu của các DNNN chưa được minh bạch là do thiếu chế tài hay do các DN chưa có ý thức chấp hành?
Tôi nghĩ là cả hai. Thực tế, nghĩa vụ công bố thông tin của DNNN, nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hiện chưa được đặt ra rõ ràng. Hàng loạt DNNN đua nhau đầu tư tràn lan ra ngoài ngành nghề chính, gây thất thoát không nhỏ tài sản của Nhà nước, nhưng việc xử lý lãnh đạo các DN này ra sao không được công khai. Điều đáng nói là với những trường hợp không tự giác chấp hành, thì hiện chưa có chế tài để xử lý. Bởi vậy, trong các quy định điều chỉnh hoạt động của DNNN thời gian tới, rất cần quan tâm khắc phục những vấn đề này.

Ông có cho rằng, sức ép minh bạch nợ xấu sẽ phát huy ý nghĩa lớn hơn trong quá trình thúc đẩy tái cấu trúc DNNN nếu thị trường mua bán nợ sớm ra đời và hoạt động minh bạch, hiệu quả?
Trên thị trường tài chính thế giới, nghiệp vụ mua bán nợ rất phổ biến và công cụ này mang lại hiệu quả lớn trong tái cơ cấu nợ cho các DN, cũng như nền kinh tế quốc gia nói chung. Điều quan trọng nhất khi thiết lập thị trường này là phải hình thành đồng bộ chính sách nhằm đảm bảo cho thị trường vận hành minh bạch, hiệu quả. Trong đó, phải làm rõ các tiêu chí mua, bán nợ. Cụ thể, cần có cơ chế ưu tiên mua nợ xấu của các DN có công nghệ, sản phẩm, thị trường tốt, quản trị hiệu quả…, nhưng do yếu tố khách quan tác động, chẳng hạn như lạm phát, lãi suất cao dẫn đến kinh doanh khó khăn. Ngược lại, nên có quy định khắt khe khi mua nợ của các DN có quá trình hoạt động không hiệu quả, thậm chí không mua nợ của các DN này, để tạo áp lực thanh lọc theo luật chơi thị trường đối với các DN làm ăn yếu kém kéo dài.

Theo ông, cần ưu tiên triển khai thêm những giải pháp nào để đẩy nhanh quá trình cải cách DNNN sao cho hiệu quả hơn?
Cho đến thời điểm này, có 3 câu hỏi quan trọng quyết định sự thành bại của nỗ lực tái cơ cấu DNNN cần có câu trả lời thỏa đáng.

Thứ nhất, cần bao nhiêu chi phí để tái cơ cấu DNNN nhằm đạt mục tiêu đề ra? Không có chuyện “miễn phí” khi triển khai tiến trình đầy cam go này, nhất là trong bối cảnh các DNNN có tỷ lệ nợ xấu rất đáng quan ngại.

Thứ hai, 3 lĩnh vực tái cấu trúc là DNNN; đầu tư; hệ thống tổ chức tín dụng và các định chế tài chính đều có mối quan hệ mật thiết với tái cấu trúc thể chế, bộ máy quản lý, nhưng vấn đề này chưa được đặt ra rõ nét.

Thứ ba, tái cấu trúc DNNN nghĩa là muốn chuyển từ điểm A sang điểm B. Vậy điểm A đang ở đâu và tất cả những biểu hiện của điểm A là gì? Tương tự, điểm B như thế nào, các tiêu chí của điểm B là gì? Quỹ đạo từ điểm A sang điểm B phải đi qua những bước nào thì mới đạt được mục tiêu đề ra? Hiện bức tranh của điểm A và điểm B đều chưa rõ ràng.

Nguồn: THEO ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN SỐ 56 NGÀY 9/5/2012
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 203
Tham gia ngày : 04/04/2012
Tuổi (Age) : 45
Đến từ : Hà Nội 2

https://vb2k11b.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Empty Cơ chế, chính sách xử lý nợ: Những bất cập cần sửa đổi

Bài gửi  Admin Thu May 17, 2012 11:17 am

Để giải quyết tốt nợ xấu của nền kinh tế, Chính phủ cần xem xét nâng quy mô hoạt động DATC, đồng thời, ban hành các cơ chế tạo các quyền hạn và công cụ cho phép DATC chủ động thực hiện tốt các chức năng của mình.

Để giải quyết thực trạng trên, việc Chính phủ đứng ra mua lại các khoản nợ xấu của các DN và ngân hàng thông qua một định chế tài chính được chỉ định là một bước đi hợp lý. Trên thực tế, Chính phủ cũng đã khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như DN bán lại các khoản nợ xấu cho Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC). Giao dịch này về mặt bản chất, chính là việc Nhà nước mua lại các khoản nợ xấu.
Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! 20120510125026anh-Hiep
Th.s Phan Hoài Hiệp
Q.Trưởng phòng Quản lý Đầu tư - Công ty Mua bán nợ Việt Nam

Hiện nay, các cơ chế, chính sách trong hoạt động xử lý nợ đã được ban hành đầy đủ, quy định chi tiết cách thức xử lý nợ của các chủ nợ là DN và TCTD.

Thứ nhất, đối với chủ nợ là các DN, nói chung, đều đang thực hiện Thông tư số 228/2009/TT-BTC ngày 7/12/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng để xử lý các khoản nợ xấu của DN, trong đó, DN dự kiến các tổn thất có thể xảy ra đối với nợ phải thu để trích lập dự phòng theo tuổi nợ quá hạn hoặc tình trạng của khách nợ. Các khoản dự phòng này được trích trước vào chi phí hoạt động kinh doanh năm báo cáo của DN. Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi thì DN phải xử lý tổn thất từ các nguồn dự phòng và nếu còn thiếu thì hạch toán vào chi phí. Các khoản nợ phải thu sau khi đã có quyết định xử lý, DN vẫn phải theo dõi riêng trên sổ kế toán và được phản ánh ở ngoài bảng cân đối kế toán trong thời hạn tối thiểu là 10 năm, tối đa là 15 năm kể từ ngày thực hiện xử lý và tiếp tục có các biện pháp để thu hồi nợ. Các khoản nợ phải thu này chủ yếu từ các khách nợ tổ chức là khách hàng của DN, đang kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán nợ.

Thứ hai, đối với chủ nợ là các TCTD: cũng giống như các DN, TCTD đang thực hiện Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN và Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện đánh giá, phân loại và xử lý các khoản nợ xấu, đồng thời, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản nợ thông qua sử dụng dự phòng và phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Trường hợp số tiền dự phòng không đủ để xử lý toàn bộ rủi ro tín dụng của các khoản nợ phải xử lý, TCTD hạch toán trực tiếp phần chênh lệch thiếu của số tiền dự phòng vào chi phí hoạt động. Sau khi đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, TCTD phải chuyển các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng từ hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp để thu hồi nợ triệt để. Sau 5 năm kể từ ngày sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, TCTD được xuất toán các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng ra khỏi ngoại bảng. Riêng đối với các NHTM nhà nước, việc xuất toán chỉ được phép thực hiện khi có đầy đủ hồ sơ, tài liệu chứng minh đã sử dụng mọi biện pháp thu hồi nợ nhưng không thu được nợ và phải được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

DATC-Notes được căn cứ trên giá trị ghi sổ còn lại của nợ xấu sau khi đã thanh toán một phần bằng tiền mặt, các chủ nợ sẽ nhận được bằng đúng với giá trị khoản nợ xấu của mình, lúc này các khoản nợ xấu của TCTD, DN sẽ được xử lý một cách triệt để. Để thực hiện tốt giải pháp này, Nhà nước cần tạo cơ chế về DATC-Notes như là một dạng chứng khoán nợ và có quy định bắt buộc các TCTD xử lý nợ xấu thông qua DATC, đồng thời cho phép DATC được quyền định kỳ định giá lại và thực hiện chia sẻ lợi ích/ lỗ khi xử lý các khoản nợ xấu này cho các TCTD. Các TCTD sẽ được thanh toán DATC Notes theo giai đoạn thu hồi nợ của DATC.

Các quy định hiện hành về xử lý nợ xấu của các chủ nợ nêu trên cho thấy, nếu tuân thủ một cách chặt chẽ, phản ánh đúng mức độ thực sự của nợ xấu thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động và kết quả kinh doanh của DN, TCTD. Nếu thực hiện xử lý nợ thông qua bán nợ, xử lý tài sản đảm bảo nợ thì cũng chỉ thu hồi được một phần vốn, thậm chí làm phát sinh lỗ, mất vốn, làm giảm các hệ số an toàn vốn của DN, TCTD, nhất là các khoản nợ lớn.

Đối với khoản nợ xấu toàn hệ thống tín dụng ước tính vào khoảng 90.000 tỷ đồng, nếu được xử lý theo hướng trích lập dự phòng 100% giá trị khoản nợ xấu thì sẽ làm giảm kết quả kinh doanh (giảm lãi hoặc tăng lỗ) với giá trị tương đương 90.000 tỷ đồng. Nếu xử lý thu hồi nợ bình quân theo tỷ lệ khoảng 30% giá trị khoản nợ thì TCTD chắc chắn sẽ phải ghi nhận khoản lỗ hoặc mất vốn tương đương 63.000 tỷ đồng (riêng trường hợp Habubank nếu xử lý đầy đủ nợ xấu sẽ làm mất hầu hết vốn chủ trên 4.000 tỷ đồng). Trong trường hợp các TCTD phản ánh đầy đủ, chính xác số nợ xấu thì nợ xấu có khả năng lớn hơn nhiều số đã công bố (Hãng xếp hạng tín dụng Fitch Ratings nhận định, mức độ nợ xấu thực sự của Việt Nam có thể vượt 4 lần so với con số công bố) và để xử lý số nợ xấu theo quy định sẽ vượt quá khả năng tài chính của các TCTD.

Điều này sẽ làm giảm hình ảnh và uy tín của các chủ nợ, làm gia tăng tình trạng mất thanh khoản và làm suy yếu DN và TCTD. Do đó, không loại trừ trường hợp các DN, TCTD thực hiện nhiều cách để phản ánh không đầy đủ thực trạng nợ xấu của mình, dẫn đến các bên chủ nợ và khách nợ đều lâm vào bế tắc, tất cả các bên đều bị thiệt hại lớn do không được xử lý nợ một cách triệt để và cuối cùng sẽ dẫn đến các chủ nợ là DN, TCTD không thu hồi được vốn, khách nợ là các DN bị phá sản, người lao động mất việc làm. Số nợ xấu tiếp tục gia tăng làm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.

Mặt khác, hiện Ngân hàng Nhà nước chưa có chính sách tăng cường bán nợ xấu của các TCTD. Các NHTM nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa không bàn giao nợ xấu loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp cho DATC theo quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP, Nghị định 59/2011/NĐ-CP… cũng khiến các thương vụ mua bán nợ chậm trễ, kéo dài, làm giảm hiệu quả của hoạt động này.

Trong quá trình tìm hiểu thông tin để bán nợ, các ngân hàng thường đưa ra giá bán nợ khá cao, không phù hợp với tính chất khoản nợ đem bán (DN thua lỗ lớn, tài sản đảm bảo cho khoản nợ không có tính thanh khoản, lĩnh vực kinh doanh khó khăn...). Mặt khác, cơ chế hướng dẫn bán nợ của ngân hàng cũng chưa đồng bộ, đặc biệt là với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Trong khi việc mua bán nợ với các NHTM (nhà nước và cổ phần) đã được thực hiện trong nhiều năm, nhưng riêng với đặc thù của VDB, việc bán nợ phải được Bộ Tài chính thông qua và phê duyệt. Trong nhiều trường hợp, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tái cấu trúc DN, DATC đã phải chấp nhận mua nợ từ VDB với giá 100% giá trị nợ gốc, song quá trình phê duyệt bán nợ thường kéo dài, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của phương án tái cấu trúc DN.

Có thể nói, quy mô nợ xấu của nền kinh tế hiện nay rất lớn và có xu hướng gia tăng do ảnh hưởng của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, nhất là nợ xấu của các DN có quy mô lớn, trong đó có DNNN. Trên thị trường xử lý nợ xấu hiện nay, mới chỉ có DATC trực thuộc Bộ Tài chính, nhưng quy mô về vốn của DATC rất nhỏ, các cơ chế chính sách cho hoạt động mua bán nợ còn chưa hoàn thiện, nên quy mô xử lý so với số nợ xấu của nền kinh tế của DATC vẫn còn khiêm tốn, số lượng DN được xử lý nợ chiếm số lượng nhỏ so với số lượng DN cần tái cơ cấu.

Để giải quyết tốt nợ xấu của nền kinh tế, Chính phủ cần xem xét nâng quy mô hoạt động DATC, đồng thời, ban hành các cơ chế tạo các quyền hạn và công cụ cho phép DATC chủ động thực hiện tốt các chức năng của mình theo hướng được tham gia sâu rộng vào xử lý nợ xấu của các TCTD, tái cơ cấu các DN lớn gắn với xử lý nợ; mở rộng và linh hoạt các phương thức thanh toán các khoản nợ xấu của DATC bằng tiền mặt hoặc tiền mặt kết hợp trái phiếu DATC (DATC-Notes). Ngoài ra, cần nghiên cứu thực hiện xã hội hóa hoạt động mua bán nợ theo hướng thí điểm thành lập CTCP xử lý nợ, trong đó có sự tham gia góp vốn của DATC.

Tình trạng nợ xấu của các DN đang tăng mạnh, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nền kinh tế. Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 9/2011, dư nợ cho vay DNNN vào khoảng 416.000 tỷ đồng, tương đương 17% tổng dư nợ, trong đó dư nợ cho vay 12 tập đoàn kinh tế nhà nước khoảng 219.000 tỷ đồng. Số nợ xấu của khối DNNN dù chưa có thống kê đầy đủ, song trên thực tế chiếm số lượng không nhỏ do nhiều nguyên nhân, từ tình trạng đầu tư dàn trải của các đơn vị này lẫn tác động tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế…


Nguồn: THEO ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN SỐ 56 NGÀY 9/5/2012

Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 203
Tham gia ngày : 04/04/2012
Tuổi (Age) : 45
Đến từ : Hà Nội 2

https://vb2k11b.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Empty 'Chính phủ không có bổn phận mua nợ xấu ngân hàng'

Bài gửi  Admin Tue Jun 12, 2012 9:54 am

Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cho rằng không nên để cơ quan hành chính điều hành công ty mua bán nợ và nợ xấu ngân hàng phải chia thành các loại để bán tương xứng với chất lượng.

- Ông đánh giá như thế nào về ý tưởng thành lập công ty mua bán nợ để xử lý 100.000 tỷ đồng nợ xấu của các ngân hàng?
Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Bui-kien-thanh1
- Đến bây giờ, đây vẫn chỉ là đề xuất, chưa ai nói số tiền 100.000 tỷ đồng sẽ lấy ở đâu, tổ chức công ty như thế nào, ai quản trị. Nhưng dù Ngân hàng Nhà nước hay Bộ Tài chính đứng ra tổ chức, công ty này cũng phải hoạt động như một doanh nghiệp kinh doanh thực sự. Nghĩa là khi mua nợ thì phải mua đúng giá và bán có lời.

Nếu kinh doanh mua bán nợ xấu mà không có lãi, thì ai mua. Mà lỗ lại hại ngân sách, do đó phải là công ty kinh doanh. Nhà nước có thể tạo điều kiện bằng cách cung cấp một số vốn, nhưng không phải Nhà nước đứng ra mua để gánh nợ xấu cho ngân hàng.

- Ông nói rằng công ty mua bán nợ xấu phải kinh doanh có lời. Vậy như thế nào thì được coi là có lời?
- Tức là, phải thẩm định giá trị thực của nợ trước khi mua. Khi đó, nợ xấu 10% thì bán 10%, 20% thì bán 20%... Chứ bây giờ anh nợ xấu 100% mà anh đòi tôi mua cả, thì khó.

Về giá, cứ tưởng tượng rằng, ngân hàng bán nợ xấu cũng giống như bán cam ở chợ. Cam phải được phân ra từng loại, chua để sang một bên, ngọt để một bên, thối để một bên… Không thể bán cam chua, cam thối theo giá của cam ngọt được.

- Vậy theo ông, việc mua bán nợ nên giao cho cơ quan nào là phù hợp?
- Cái này phải hỏi lại Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước cũng chưa nói rõ là cơ quan nào, mà chỉ “bắn tin” đó có thể là quỹ này quỹ kia, nhà đầu tư trong nước, hoặc nước ngoài.

Một số ý kiến thì cho là Chính phủ. Nhưng Chính phủ đâu có bổn phận phải thu mua nợ xấu của ngân hàng. Cho nên phải bàn bạc thật kỹ, vì chưa chắc số nợ xấu của ngân hàng đã là 100.000 tỷ mà có thể rất là nhiều, lên tới 200.000 tỷ, 300.000 tỷ đồng thì sao? Vĩ theo công bố, bản thân các doanh nghiệp nhà nước đã nợ ngân hàng 415.000 tỷ rồi, trong đó có 218.000 tỷ đồng là của 12 tập đoàn, tổng công ty và chưa kể số còn lại từ các doanh nghiệp, cá nhân khác.

Cho nên, vấn đề trước mắt cần phải xác định được có tổng cộng bao nhiêu nợ xấu. Rồi sau đó hãy quyết định xem cơ quan nào có đủ tiềm lực để mua bán hết số nợ này: Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính hay Công ty mua bán nợ Bộ Tài chính, các ngân hàng thương mại với nhau hay nhà đầu tư nước ngoài?

- Vậy khi thành lập công ty mua bán nợ xấu, cần lưu ý những điều gì để đảm bảo việc mua bán nợ diễn ra minh bạch và không phát sinh tiêu cực?
- Không nên giao việc này cho các tổ chức hành chính, vì đã là hành chính thì như chúng ta thấy, có hiện tượng “phong bao, phong bì”. Rất có khả năng, công ty mua bán nợ sẽ dùng tiền mua sản phẩm dưới chuẩn, không chất lượng tạo ra những vấn đề khác không giải quyết được. Càng không thể biến công ty này thành nơi để ngân hàng làm sạch những khoản đầu tư không chính đáng ở “sân sau” của họ.

Do đó, nếu thành lập, cần tạo cho nó một hoạt động an toàn, mua nợ với giá thực tế, và có thể bán lại. Không được thành lập công ty theo kiểu nhà nước, công chức, viên chức. Vì chúng ta thấy thực tế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là như thế nào rồi.

Ngoài ra, cũng cần phải lường trước được nguy cơ, khi thấy có công ty mua bán nợ, nhóm lợi ích ngân hàng sẽ “quét nhà”, đủn hết nợ sang để lấy tiền. Bán được nợ xấu, thối thì ngân hàng sướng rồi, còn nó xấu bao nhiêu, thối bao nhiêu, thì cái anh công ty kia phải chịu. Các ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước cùng hào hứng vì đẩy được “nợ thối” qua các công ty mua bán nợ này.

- Quy mô nợ xấu cần xử lý lên tới 100.000 tỷ đồng, một số ý kiến cho rằng nên phát hành trái phiếu để có tiền mua bán nợ. Còn ông nghĩ sao?
- Quan trọng là cơ quan nào sẽ đứng ra tổ chức công ty mua bán nợ nói trên. Nếu Ngân hàng Nhà nước phát hành tín phiếu cho ngân hàng thương mại, thì chẳng hóa ra cho vay để mua lại nợ của chính mình à? Sẽ không hợp lý.

Nhưng không loại trừ khả năng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ nhìn vào nợ xấu như một sản phẩm có thể đầu tư, song chắc chắn sẽ không mua với 100% mệnh giá.

Còn nếu do Công ty mua bán nợ Bộ Tài chính (DATC) đứng ra mua, thì Bộ Tài chính có thể cung cấp tiền cho DATC bằng cách phát hành trái phiếu. Nhưng đây mới chỉ là giả thuyết.

- Khi ngành ngân hàng công khai số nợ xấu hàng trăm nghìn tỷ, theo ông thống kê này gây hệ quả gì cho xã hội?
- Ảnh hưởng cũng không lớn lắm, vì nợ của doanh nghiệp nhà nước 415.000 tỷ đồng chủ yếu do vay của các ngân hàng quốc doanh. Những ngân hàng thương mại còn lại, trừ Habubank không hiểu vì sao lại cho Vinashin vay nợ đến 3.000 tỷ đồng, hầu hết đều không có nhiều nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước.

Vấn đề cần quan tâm bây giờ là giải quyết nợ xấu, mà muốn giải quyết thì phải công khai. Vì nợ xấu làm đóng băng hết tín dụng, nền kinh tế không tăng trưởng được. Giờ, phải giải tỏa quy định pháp luật về việc ngân hàng tiếp tục cho vay với doanh nghiệp. Doanh nghiệp mà không vay được, thì ngân hàng không cho vay được dù lãi suất có hạ thế nào đi chăng nữa. Doanh nghiệp mà chết thì ngân hàng cũng chết.

Trên diễn đàn Quốc hội hôm 8/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho biết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã tăng từ 6% lên 10%, khiến chi phí vốn đắt đỏ, ngân hàng không có điều kiện đẩy mạnh cho vay.

Ngân hàng Nhà nước dự kiến phối hợp với các bộ, ngành thành lập Công ty mua bán nợ quốc gia, góp phần xử lý trên dưới 100.000 tỷ đồng nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Nguyên tắc hoạt động của công ty này là tạo ra một thanh khoản nhất định cho các tổ chức tín dụng, trên cơ sở đó có lượng vốn cần thiết cho vay.
Sinh năm 1932, chuyên gia Bùi Kiến Thành có gần 60 năm kinh nghiệm ở lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản trong nước và quốc tế. Ông từng đảm nhận trọng trách tại Tập đoàn Tài chính Mỹ (AIG) trước khi trở về Việt Nam vào những năm 1980 để tư vấn cho Chính phủ, các bộ ngành về nhiều vấn đề như tài chính quốc tế, hội nhập, hàng không, điện lực và công nghệ thông tin.
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 203
Tham gia ngày : 04/04/2012
Tuổi (Age) : 45
Đến từ : Hà Nội 2

https://vb2k11b.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp! Empty Re: Cấp bách hình thành thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp!

Bài gửi  Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics
» Quyết định số 40/2011/QĐ-UBND, ban hành ngày 20/12/2011 về Quy định về trình tự, thủ tục cho phép hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất vườn, ao liền kề và đất nông nghiệp xen kẹt trong khu dân cư (không thuộc đất công) sang.....
» Thông tư 45/2011/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn xác định diện tích đất sử dụng không đúng mục đích, diện tích đất lấn, chiếm, diện tích đất chưa sử dụng theo đúng quy định để tính thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
» NHỮNG BÀI HÁT SONG CA
» Quyết định số 48/2011/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội V/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 02/2010/QĐ-UBND ngày 18/01/2010 của UBND Thành phố về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để...
» Quyết định 5770/QĐ-UBND ngày 12/12/2011 của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội về việc quy định tạm thời chi phí tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất hoặc thuê đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết